Sinh thời, Chu Thần Cao Bá Quát viết: Thập tải luân giao cầu cổ kiếm/ Nhất sinh đê thủ bái mai hoa: Mười năm xuôi ngược tìm gươm báu/ Một đời chỉ cúi lạy hoa mai). Xưa nay, người đời sau, với một “tập quán ngữ nghĩa” đều lãnh hội cái nghĩa “mai hoa” của câu trên là hoa mai vàng (loài hoa mai mà chúng ta thường thấy mỗi độ xuân về).
Và
dĩ nhiên, sự liên tưởng đến cây mai vàng trong những câu thơ như thế đã thành một
cách hiểu “truyền thống”. Nhưng kỳ thực, trong văn chương thời Trung đại, cây
mai, hoa mai được đề cập đến hoàn toàn không liên quan gì đến cây mai vàng cả.
Do vậy, thiết tưởng cũng cần đính chính về hoa mai trong thơ văn xưa. Thực tế,
có trên 200 loại mai khác nhau, nhưng để tập trung, chúng tôi chỉ đề cập đến
hai loại mai liên quan đến nội dung bài viết mà thôi.
Thứ
nhất, tra cứu Từ điển Hán Việt thì có thể thấy chữ “mai” được “định tính” rất
rõ: đó là cây mơ, đầu xuân nở hoa, có hai màu trắng và đỏ. Thứ mai trắng nở hết
hoa rồi mới nẩy lá, có quả chua (Thiều Chửu, Từ điển Hán Việt, Nxb. TP.HCM, tr.
295).
Thứ
hai, tra cứu các loại sách khoa học về giống cây trồng thì cũng có thể thấy được
diễn biến tương tự. Cây mai có tên khoa học là Prunus mume S.et Z thuộc họ mơ;
cây mai vàng có tên khoa học là Ochna harmandii Lee thuộc họ hoàng mai (Đỗ Tất
Lợi, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, Nxb.KHKT, Hà Nội, 1986, tr.706).
Cũng theo tác giả Đỗ Tất Lợi trong bài viết Cây mơ, cây mai dưới con mắt người
làm công tác khoa học (in trên Báo Nhân dân, ngày 22/2/1983) thì, người Việt chỉ
biết đến cây mai vàng (hoàng mai) chỉ khoảng 300 năm nay.
Từ rất
lâu, trong Cáo tật thị chúng, Mãn Giác Thiền sư ** (1052-1096) từng viết: Mạc vị
xuân tàn hoa lạc tận/ Đình tiền tạc dạ nhất chi mai (Chớ bảo xuân tàn hoa rụng
hết/ Đêm qua sân trước một nhành mai).
Mãn
Giác Thiền sư sống ở đất Bắc vào đời Lý Thái Tông khoảng niên hiệu Thông Thụy
(1034-1038). Xét về không gian, thì ở miền Bắc không có mai vàng (ngay cả đến
bây giờ, dù có áp dụng những tiến bộ kỹ thuật cũng khó mà ép cây mai vàng nở
hoa trong khí hậu của vùng địa lý này). Xét về thời gian, thì bấy giờ, Việt Nam
chưa xuất hiện giống mai vàng. Do vậy, Mãn Giác Thiền Sư không bao giờ “có cơ hội”
trông thấy cây mai vàng để viết về loài hoa Ochna harmandii Lee này được. Và dĩ
nhiên: Đình tiền tạc dạ nhất chi mai (Đêm qua sân trước một nhành mai) chính là
nhất chi mai thuộc họ mơ, đó là loài Prunus mume S.et Z.
Sự
ngộ nhận trên ắt hẳn liên quan những dịch giả, mà quá trình dịch các bài thơ chỉ
nói đến cái cây mai, hoa mai chung chung. Trên tất cả các bài thơ thời Trung đại
chữ “mai” chỉ xuất hiện với tư cách đơn lẻ: nhất chi mai (Mãn Giác Thiền sư);
bái mai hoa (Cao Bá Quát); kiến mai hoa (Miên Thẩm); ức mai(Mai Am) v.v. Trong
khi đó, muốn hiểu là mai vàng thì chắc chắn phải có một tính từ màu sắc ở trước
là hoàng mai. Còn chỉ là mai thôi, không thể hiểu thành mai vàng được!
Thứ
ba, thử xét, bản chất của cây mai (hàn mai) - Prunus mume S.et Z- là gầy guộc,
mảnh mai, trong sương tuyết, phong ba vẫn trổ hoa, nẩy lộc (điều mà chắc chắn
loài mai vàng không có). Nó là biểu thị cho sức sống, cho khát vọng, cho ý chí,
vì vậy, cây mai còn là đại diện của chữ nhẫn và chữ dũng.
Thứ
nữa, cây mai trong văn chương đã trở thành một biểu tượng thẩm mỹ có tính truyền
thống của các nước đồng văn như Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Hoa
mai trong thơ cổ nước ta và nhiều quốc gia khác ở Á Đông, chính là hoa mai màu
trắng.
Trong
thơ văn, cây mai được đề cao do hình ảnh của nó tuy mảnh mai, gầy guộc, mong
manh, hoa có hương thơm dịu dàng nhưng luôn chịu được gió tuyết để nở hoa, nào
là mình hạc, xương mai; mai cốt cách, tuyết tinh thần v.v. Xin điểm qua bằng một
vài ví dụ.
- Lư
Mai Pha, một thi nhân đời Tống (T.Q), đã so sánh mai và tuyết qua hai câu:
Mai
tu tốn tuyết tam phân bạch
Tuyết
khước thâu Mai nhất đoạn hương
(Mai
nên nhường tuyết ba phân trắng
Tuyết
phải thua mai một bậc thơm).
-
Thi hào Nguyễn Trãi từ thế kỷ XV đã có 8 bài “Ngôn chí” đề cập đến hoa mai với
những câu như: Trà mai đêm nguyệt dậy xem bóng (Ngôn chí 2); Thưởng mai, về đạp
bóng trăng (Ngôn chí 15) v.v.
-
Thi hào Nguyễn Du viết:
Nghêu
ngao vui thú yên hà
Mai
là bạn cũ, hạc là người quen.
Trong
Truyện Kiều, Nguyễn Du, mai đã xuất hiện đến 15 lần, mà quá nửa là mỹ từ: sân
mai, song mai, trướng mai, tiên mai, giấc mai, hồn mai...
Lại
xét, hai câu đã nêu ở phần đầu của Cao Bá Quát, ta thấy, một người ngạo nghễ bậc
nhất, xem uy quyền nhẹ như lông hồng như Chu Thần mà gập mình, cẩn trọng để “một
đời chỉ cúi lạy hoa mai”. Không lẽ họ Cao lại cúi lạy “mai vàng” (?) Chắc là
không rồi, ở đây Chu Thần chỉ cúi lạy cái khí tiết không khuất phục phong ba của
loài hàn mai mà thôi, cái loài mai đã là biểu tượng thẩm mỹ chung với những lý
do giải thích được của các nước đồng văn vậy.
Đó là loài mai mà hiện còn một cây « dáng vẻ cổ thụ » trong chùa Gò ở Phú Lâm (Tp. HCM). Theo các nhà khoa học, chính cây mai này đã khơi nguồn cảm hứng cho Trịnh Hoài Đức (1725-1825) và nhóm bằng hữu của ông viết nên tập "Mộng mai đình". Cây mai này cũng là biểu tượng của Thi xã Bạch Mai quy tụ nhiều tên tuổi ở Nam Bộ bấy giờ như: Phan Văn Trị, Tôn Thọ Tường, Trần Thiện Chánh, Hồ Huấn Nghiệp, Huỳnh Mẫn Đạt...
Cuối
cùng xin đơn cử thêm một ví dụ ngoài văn chương để thuyết minh thêm cho sự liên
quan giữa mai và mơ, nhằm hiểu thêm về loài hàn mai trong văn học Trung đại. Ở
Hà Nội, có Phố Bạch Mai mà cuối phố này cái chợ có lẽ đã sinh ra được vài trăm
năm, nguyên nó chỉ là cái chợ của mấy làng mơ. Đó chính là Chợ Mơ, nơi kết thúc
phố Bạch Mai. Điều này giải thích sự liên hệ giữa Phố Bạch Mai và chợ Mơ đều
liên quan đến cây mai có tên khoa học là Prunus mume S.et Z thuộc họ mơ vậy (Bạch
Mai - mai trắng và Chợ Mơ - khu chợ vốn trước đây bán quả mơ).
Cuối cùng, xin nói rõ, người viết bài này không có ý mạo phạm đến cây hoa mai vàng, tự thân loài mai này cũng đã toát lên vẻ đẹp uyên nguyên của nó. Nhưng cái gì của Ceza ắt hẳn phải trả lại cho “khổ chủ”, đó là công bằng, công bằng với lịch sử thẩm mỹ và văn chương. Có thể ai đó sẽ thất vọng vì lâu nay đã quá “thần tượng” về loài mai vàng trong cách nghĩ của mình, nhất là những liên tưởng trong văn chương, nhưng cũng không cách nào khác, phải công bằng cho một biểu tượng thẩm mỹ vốn đã bị ngộ nhận từ rất lâu./.
Hoa Mai Tết Bình Định
Các
bạn cũng có thể muốn xem:
- Vì đâu mà cây mai vàng “đoạn tuyệt” vớingười dân miền Bắc chỉ còn tại khu rừng sâu Yên Tử? Cùng bàn về Bạch mai, HoàngMai, mai vàng Yên Tử.
- Cách trồng Nhất chi mai.
- “Mả Vòng đêm vắng ma trêu nguyệt - PhướcHải xuân về cọp thưởng mai”: Hóa ra Khánh Hòa xưa kia có cả một rừng mai
Tags:
Nhất chi mai, hồng mai, thiền sư mãn
giác, nhất chi mai là gì, vì sao miền bắc không có mai vàng